Giảm nghèo cho Hộ nghèo có thành viên thuộc chính sách ưu đãi người có công
Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước nâng cao thu nhập cải thiện cuộc sống cho hộ nghèo, giúp hộ nghèo thoát nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các nhóm dân cư trong xã hội, giữa các dân tộc, giữa các vùng. Trong thời gian qua được sự quan tâm, trực tiếp chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự hỗ trợ của tổ chức đoàn thể và sự đồng tình ủng hộ cao của nhân dân, công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đã đạt được những kết quả đáng kể, ngoài việc giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm trên 2%, đời sống hộ nghèo từng bước được cải thiện, tăng thêm thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội như: nhà ở, y tế, giáo dục, trợ cấp, trợ giúp xã hội ngày càng tốt hơn góp phần lớn trong công tác giảm nghèo theo hướng bền vững của Đảng và Nhà nước.
Theo kết quả rà soát hộ
nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2018, toàn tỉnh Trà Vinh còn 16.414 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,95% so với tổng
số hộ dân cư toàn tỉnh, trong đó: Hộ nghèo theo tiêu chí thu nhập (Hộ N1)
15.576 hộ, chiếm tỷ lệ 94,89% so với tổng số hộ nghèo; Hộ nghèo thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản (Hộ N2) 838 hộ, chiếm tỷ lệ 5,11% so với tổng số
hộ nghèo; Hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội 1.918 hộ, chiếm tỷ lệ 11,69%
so với tổng số hộ nghèo; Hộ nghèo thuộc chính sách ưu đãi người có công 101 hộ,
chiếm tỷ lệ 0,62% so với tổng số hộ nghèo; Hộ nghèo dân tộc Khmer 10.079 hộ,
chiếm tỷ lệ 11,27% so với tổng số hộ dân cư dân tộc khmer. Hộ cận nghèo còn
23.046 hộ, chiếm tỷ lệ 8,36% so với tổng số hộ dân cư toàn tỉnh, trong đó hộ
cận nghèo dân tộc khmer 11.892 hộ, chiếm tỷ lệ 13,30% so với tổng số hộ dân cư
dân tộc khmer.
Trong 101 hộ nghèo có thành
viên thuộc chính sách ưu đãi người có công được phân loại cuối năm 2018, qua rà
soát lại vào quý I/2019 toàn tỉnh chỉ còn 96 hộ có đối tượng người công thuộc hộ
nghèo, trong đó có: 47 người là cha, mẹ, vợ, con liệt sĩ; 03 người là con
đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; 04 người có công
giúp đỡ cách mạng; 27 người là thương binh, bệnh binh; 18 người hoạt động cách
mạng bị địch bắt tù, đày.
Nguyên nhân
nghèo của nhóm hộ nghèo thuộc chính sách ưu đãi người có công ở tỉnh Trà Vinh là
do người đang hưởng chính sách ưu đãi Người có công phần đông là người cao tuổi
không có việc làm để tạo thu nhập, tuy mức trợ cấp hàng tháng cho người có công
trên mức chuẩn nghèo nhưng trong hộ lại có nhiều thành viên sống phụ thuộc nên với
khoản tiền trợ cấp hàng tháng từ chính sách ưu đãi người có công không đảm bảo
đủ trang trãi cuộc sống của cả gia đình. Bên cạnh đó, một số đối tượng người có
công là thương binh tuy còn tuổi lao động nhưng không có nghề nghiệp ổn định,
không có đất sản xuất, đang nợ ngân hàng nên không dám vay thêm vốn; một số đối
tượng người có công là người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù, đày, thương
binh, bệnh binh có tỷ lệ thương tật thấp nên hưởng mức trợ cấp hàng tháng không
cao, hộ không có lao động, không có ruộng đất, sống chủ yếu vào phần trợ cấp
hàng tháng.
Nhằm hỗ trợ các
điều kiện để hộ nghèo có thành viên thuộc chính sách ưu đãi người có công trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, tăng thêm
thu nhập vượt qua chuẩn nghèo theo quy định tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg
ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần nâng mức sống hộ nghèo thuộc
chính sách ưu đãi người có công ngang bằng mức sống trung bình của cộng đồng
dân cư và đạt mục tiêu đến cuối
năm 2019 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh không còn hộ nghèo thuộc chính sách ưu đãi
người có công. Từ cơ sở trên, Sở Lao động -Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ủy
ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 55/KH-UBND ngày 26/6/2019 về giảm nghèo
cho nhóm hộ nghèo có thành viên thuộc chính sách ưu đãi người có công trên địa
bàn tỉnh Trà Vinh, tổng kinh phí thực hiện đề ra trong Kế hoạch là 1.328 triệu
đồng.
Nội dung Kế hoạch đề ra các giải pháp hỗ
trợ như: xây dựng, sửa chữa nhà ở, hỗ trợ thêm thu nhập hàng tháng, hỗ trợ hỗ
xí hợp vệ sinh, hỗ trợ sinh kế.
Thứ nhất, hỗ trợ thêm thu nhập hàng
tháng cho 46 hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng từ 1,5 triệu đồng trở
xuống, kinh phí thực hiện từ nguồn vận động đóng góp, thời gian hỗ trợ bắt đầu
từ tháng 7/2019 đến khi đối tượng người có công không còn cư trú tại địa phương
hoặc qua đời (trong đó: 27 hộ có mức thu nhập bình quân dưới 1 triệu đồng/người/tháng
được hỗ trợ thêm thu nhập hàng tháng 1 triệu đồng/hộ và 19 hộ có mức thu nhập
bình quân từ 1-1,5 triệu đồng/người/tháng được hỗ trợ 500.000 đồng/hộ/tháng);
Thứ hai, hỗ trợ nhà ở cho 23 hộ đang
khó khăn về nhà ở, kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách tỉnh, thời gian thực
hiện trong quý III/2019 (trong đó: 03 hộ khó khăn về nhà ở, chưa được hỗ trợ
nhà tình nghĩa được hỗ trợ xây mới với mức 50 triệu đồng/hộ; 03 hộ đã được hỗ
trợ nhà tình nghĩa nhưng hiện nay đã cho con ở, bản thân đang ở nhà tạm bợ xuống
cấp được hỗ trợ 25 triệu đồng/hộ); 17 hộ được hỗ trợ sữa chữa nhà ở với mức hỗ
trợ 25 triệu đồng/hộ);
Thứ ba, hỗ trợ hố xí hợp vệ sinh cho 39
hộ chưa thiếu hụt, mức hỗ trợ 6 triệu đồng/hộ từ nguồn vốn xử lý, cải thiện vệ
sinh môi trường nông thôn thuộc CTMTQG xây dựng Nông thôn mới hoặc nguồn kinh
phí vận động, vốn vay của Ngân hàng Chính sách xã hội;
Thứ tư, hỗ trợ sinh kế cho 15 hộ có nhu
cầu hỗ trợ vốn để mua bán, chăn nuôi, kinh phí thực hiện sử dụng từ nguồn vốn Dự
án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm
nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững nếu hộ đủ điều
kiện theo quy định hoặc tạo điều kiện cho hộ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của
Ngân hàng chính sách xã hội.
Ngoài ra, một số
ít trường hợp hộ có nhu cầu hỗ trợ: Đất sản xuất, bảo hiểm y tế cho thành viên
trong hộ khi hộ thoát nghèo, xóa nợ vay từ nguồn vốn vay ưu đãi của Ngân hàng
Chính sách xã hội, hỗ trợ đất ở để ra riêng cho con, kéo điện, tivi… Kế hoạch Uỷ
ban nhân dân tỉnh cũng giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét giải quyết theo
điều kiện của địa phương.
Kết quả rà soát
hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2019, toàn tỉnh Trà Vinh còn 9.573 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,62% so với tổng số hộ
dân cư toàn tỉnh, trong đó: Hộ nghèo dân tộc khmer: 5.605 hộ chiếm tỉ lệ 6.27%
so với tổng số dân tộc khmer; Hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hộ:1.612 hộ,
chiếm tỷ lệ 6.27% so với tổng số hộ nghèo; Hộ nghèo có thành viên là người có
công không còn nữa./
Tin: PGĐ Nguyễn Văn Khiêm